Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

Ý Nghĩa Hoa Cát Cánh


Cát cánh - Bluebell 
Thủy chung 
     
Hoa cát cánh

Cát cánh là một trong các loài hoa dại cứng cỏi nhất, chúng thường trở lại một cách thủy chung năm này qua năm khác, và chắc hẳn chúng mang ý nghĩa của sự bền bỉ là do khả năng tồn tại bền vững một khi đã được trồng trong khu vườn của chúng ta. Ở những nơi hoang dã, loài hoa này phủ những tấm thảm xanh ngát màu da trời lên những cánh rừng vào mỗi độ tháng Năm. Song, chúng sẵn sàng khước từ khi bị chiếm đọat: những đoá hoa hình quả chuông lay động sẽ nhanh chóng rủ xuống một khi bị hái.

Cát cánh đôi khi bị lầm lẫn với hoa Harebell (Huệ dạ hương) hay Bluebell xứ Xcốtlen, là một loài hoa khác hẳn thuộc họ Campanula. Tên nhóm là Endymion lấy theo tên một chàng chăn cừu trẻ đẹp được nữ thần mặt trăng Selene đem lòng yêu thương. Đây là một thiên tình ca đầy thơ mộng trong thần thoại Hy Lạp.

Selene yêu Endymion tha thiết. Endymion lại chẳng hề biết đến tình yêu ấy. Chàng chỉ ước mơ một điều là được trẻ đẹp mãi. Chấp nhận lời khẩn cầu của chàng, thần Zeus đã giáng xuống đôi mắt chàng một giấc ngủ triền miên. Selene được tin rất đỗi buồn rầu. Nàng cưỡi cổ xe song mã, cỗ xe có đôi ngựa trắng muốt như tuyết xuống trần gian. Nàng đến động Latmos huyền diệu, nơi Endymion đang chìm đắm trong giấc ngủ vĩnh hằng. Selene ôm lấy chàng, phủ lên người chàng những chiếc hôn nồng ấm. Nàng đưa tay vuốt ve người chàng, nằm xuống bên chàng, nghe tiếng tim chàng đập và say sưa uống từng hơi thở nồng nàng của chàng. Và cứ thế, hàng đêm, khi bóng tối đã bao phủ cả trái đất, Selene lại mặc chiếc áo dài trắng muốt, trên mũ cài một lưỡi liềm, lặng lẽ uy nghi đi ngang qua bầu trời. Nàng hiền hoà tỏa ánh sáng trắng bạc xuống đất. Khi đã đi khắp vòm trời, nàng lại lặng lẽ đến cái hang sâu vùng với Endymion. Nàng cúi xuống bên chàng, vuốt ve chàng, nỉ non những lời ân ái.

Năm tháng cứ trôi đi, Endymion vẫn ngủ triền miên còn Selene vẫn giữ mãi mối tình thủy chung, thầm lặng mà tuyệt vọng ấy. Vì vậy, ánh sáng của nàng ban đêm chiếu xuống trần gian cũng đượm vẻ mơ màng, buồn bã. Hình như những mối tình thầm lặng và tuyệt vọng đều đẹp, đều êm ái, nhẹ nhàng và bàng bạc như ánh trăng nhưng đều nhiễm phải cái nỗi buồn man mác của nữ thần Selene.

Hàng năm em trở lại
Trên sân vườn xanh tươi 
Bao người qua hờ hững
Em vẫn đời nhớ thương


Ý Nghĩa Cúc Vạn Thọ



Cúc Vạn Thọ - Marigold 
U sầu 
    

Cúc vạn thọ luôn được liên hệ với cuộc hành trình của vầng thái dương ngang qua bầu trời mỗi ngày, từ 9 giờ sáng tới 3 giờ chiều. Những người dân Anh thời xưa tin rằng họ có thể chỉnh đồng hồ dựa theo thời khắc mà loài Cúc này mở hay khép lại những cánh hoa rực rỡ của nó. Cúc vạn thọ thuộc nhóm Calenduala - hoa nở quanh năm. Còn tên gọi Marigold có lẽ có nghĩa là Mary-gold, từ tên của Đức Mẹ Đồng Trinh.

Cúc vạn thọ được trồng trong vườn, nở hoa tròn và lớn, có màu vàng hoặc màu cam. Người đời tin rằng hoa này tương trưng cho nỗi buồn bởi vì mỗi ngày hoa đều khóc than cho sự ra đi của mặt trời mà vào lúc đó những cánh hoa đành phải khép lại. 

Anh như tia nắng mặt trời
Lòng em sưởi ấm chan hòa tình anh
Hoàng hôn anh đã đi rồi
C'anh hoa khép lại đau sầu riêng ai
  

Ý Nghĩa Hoa Lưu Ly


Lưu Ly - Forget-me -not 
Tình yêu chân thành 
      

Hoa Lưu ly thường được gắn với những hoài niệm yêu đương và tình yêu chân thành. Ngày xưa có một hiệp sĩ mặc áo giáp sánh bước cùng người yêu dọc theo một dòng sông. Người đẹp trông thấy mấy cánh hoa đẹp mọc ở ven bờ, chỗ mí nước, và yêu cầu chàng hái dùm cho nàng. Trong lúc cố vươn tay với lấy các cánh hoa, chàng kỵ sĩ trượt ngã xuống dòng sông đang chảy xiết. Do áo giáp nặng nề, chàng không thể bơi được và bị nước cuốn trôi đi mất. Song trước đó, chàng đã kịp ném những cành hoa cho nàng và kêu lên: Xin đừng quên tôi (forget-me-not). Người thiếu nữ chẳng bao giờ quên chàng và đã đăt tên cho loài hoa nọ là Forget-me-not để tưởng nhớ tới chàng. Người Pháp lại gọi loài hoa này là Myosotis như biểu tượng của nỗi cô đơn. 

Hoa Lưu ly có tên khoa học là Myosotis Scorpioides từ ý tưởng cho rằng những chiếc lá của loài hoa này trông tương tự như những cái tai nhỏ nhắn của loài chuột; và toàn bộ cây thuộc họ này được gọi chung là Scorpion Grass (cỏ bò cạp) bởi vì các cụm hoa đều uốn cong lên giống như đuôi con bò cạp.

Gương nga xõa lộng yêu kiều
Em tôi dãi lụa trên vòng khung thêu
Tên em một đóa rêu hồng
Lưu ly thảo mọc trên dòng cuồng lưu 
Tên em một chốn lưu đày

Ý Nghĩa Hoa Loa Kèn


Loa Kèn - Lily
Trong Trắng 
         
Hoa Loa Kèn

Hoa Loa kèn - còn được gọi là Huệ tây, Huệ trắng, hay Bách hợp - được coi là biểu tượng của sự trong sạch và là một trong các loài hoa xưa nhất thế giới. Ngày nay ta còn tìm thấy những đóa Loa kèn được vẽ trên tường những tòa lâu đài cổ Hy Lạp, nơi mà Loa Kèn là loại hoa của chính nàng Hera, vợ của thần Zeus (và cũng là nữ thần của phụ nữ và hôn nhân).

Hoa Loa kèn được dâng tặng Đức Mẹ Đồng Trinh để tỏ lòng kính trọng đối với sự trong sạch của Người, có lẽ đó là lý do vì sao các cô dâu thích có những cành Loa kèn trong bó hoa ngày cưới, và vì sao hoa này có mặt trong nhiều buổi lễ hội tôn giáo. Còn theo thuyền thuyết thì đóa hoa Loa kèn đều tiên đã mọc lên từ những giọt nước mắt của nàng Eva khi nàng bước chân rời khỏi Vườn địa đàng.

Và trong ánh bạc sáng lung linh
Những đóa Loa kèn trang nghiêm đứng đó
Như những nữ tu trinh bạch, ngọc ngà
Trong bài kinh cầu nguyện
Nhả ra nhữNg làn hơi thanh khiết
Khiến không trung trở nên thánh thiện
Và hương hoa tràn ngập màn đêm, thơm ngát.





Ý Nghĩa Hoa Lan Dạ Hương


Lan Dạ Hương - Hyacinth 
Nỗi buồn 


           

Trong huyền thoại Hy LL.ap có một chàng tuổi trẻ đdd.ep tai tên gọi Hyacinthus, ở xứ Sparta. Chàng là bb.an thân của Apollo, vị thần mặt trời vẫn thường ngự trên chiếc chiến xa song mã bay từ trên trời xuống trái đất để chơi đùa với Hyacinthus. Một ngày nọ hai người rủ nhau thi ném dĩa xem ai là người ném xa nhất. Bấy giờ có thần gió Zephyrus đứng coi. Thần gió vốn sãn ghen tuông với thần Apollo, vì ông ta mến thích Hyacinthus và đang tìm dịp trả hận. Khi tới lượt Apollo ném cái dĩa tròn và nặng, Zephyrus bèn thổi một ngọn gió Tây làm cho cái dĩa chuyển hướng đánh trúng vào đầu Hyachinthus một cú chí tử. Apollo tràn ngập nỗi buồn nên đã khiến những đóa Lan dạ hương mọc lên từ vũng máu của bạn mình. Bằng cách đó, Apollo giữ cho kỷ niệm về người bạn thân thiết sẽ còn sống mãI.

Cây Lan dạ hương mọc từ củ, có những chiéc lá xẻ rãNh và hoa mọc thành chùm màu trắng, vàng, đỏ, xanh da trời, hay đỏ tía. 

Em mệch bạc ngàn thu sầu vĩnh biệt
Cõi vô thường chẳng thấy bóng em yêu
Ta đi mãi trong cuộc đời vô tận
Hồn nhớ thương hoa tím ngủ trên mồ

ý Nghĩa Hoa Lan Chuông


Hoa Lan Chuông - Lily of the Valley 
Hạnh phúc tìm lại 

Hoa Lan Chuông

Không có gì lạ khi hoa Lan chuông được coi như tượng trưng của hạnh phúc tìm lại, vì đây là loài hoa ngọt ngào dễ thương nhất. Người đời nói rằng những đóa hoa trắng xinh xắn hình chuông này với mùi thơm thanh khiết đặc biệt không thể lẫn lộn - đã lôi cuốn những con họa mi ra khỏi tổ và dẫn chúng đi gặp người bạn tình của mình.

Hoa Lan chuông nở ra trên một loài cây lưu niên thân thảo thường mọc trong bóng mát, mỗi cây chỉ có một cặp nhánh mà mỗi nhánh mang những chiếc lá hình thuôn cùng với một chùm hoa nở rộ, tỏa hương rất thơm. Có người còn gọi là hoa Linh lan, hay hoa Huệ củ thung lũng. Ở phương Tây, hoa Lan chuông còn có tên là May Lily và Our Lady's Tears vì người đời tin rằng chúng mọc lên từ những giọt nước mắt của Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá. Loài hoa này thường được các linh mục cho trồng để trang trí bệ thờ và còn được gọi là Ladder to Heaven (thang dẫn lên thiên đường) bởi vì những bông hoa nhỏ bé hình chuông này mọc lên đều đặn từ cuống, giống như những bậc thang.


Hồn tôi đau đớn muộn phiền
Giác quan tê cóng nỗi bàng hoàng xưa
Hay là độc dược cần sa
Đưa hồn xa cõi lãng quên tuyệt mù
Nhẹ nhàng tung cánh phiêu du
Trong niềm diễm phúc ngọt ngào tình ta
Xanh rờn thảm cỏ bóng cây
Mùa hè vang tiếng bài ca dâng đời


Ý Nghĩa Hoa Kim Ngân


Kim Ngân - Honeysuckle 
Sự ngọt ngào thiên phú 
   

Chỉ cần hút hử một chút mật từ nhị của một đóa Kim Ngân, bạn sẽ hiểu vì sao loài hoa này mang ý nghĩa sự ngọt ngào thiên phú, và vì sao trong tiếng Anh nó được gọi là Honeysuckle (honey: mật, và suckle: cho bú). Hương thơm dịu dàng, ngọt ngào của loài hoa này vẫn làm say đắm các nhà thơ và Shakespeare thường nhắc đến Kim ngân, gọi nó bằng cái tên mộc mạc của đồng quê nước Anh "woodbine". Là một loại cây leo nở rộ những đóa hoa nhỏ màu vàng hoặc hồng, cuống thân mộc của hoa luôn quấn lấy mọi thứ bắt gặp và leo lên theo chiều kim đồng hồ. Trong thảo dược học, nó có tên là Caprifolim, hoa leo nhanh nhẹn như một con dê. Người Pháp gọi kim Ngân (Chevre-feuille) là hoài hoa của lứa đôi, tượng trưng cho tình yêu không bao giờ chia lìa. 

Thường mọc ở những nơi hoang dã, Kim ngân - hay có người con gọi là hoa Ngẫn Đồng - biến những nơi đó thành một cảnh trí tuyệt vời đầy hoa tỏa ngát một mùi hương gợi cảm. 

Trên đồi thôn nữ hát ca
Dịu dàng trong gió ôn nhu tiếng cười
Em tôi trinh nữ xuân thì
Trên đầu một đóa xanh ngọt ngào

Ý Nghĩa Hoa Hướng Dương


Hướng Dương - Sunflower 
Kiêu Kỳ 
         


Hướng dương hẳn luôn cảm thấy có quyền kiêu căng. vì lẽ nó là loại hoa cao lớn trồng trong vườn. Hơn nữa, kích thước của Hướng dương không phải là vốn quý duy nhất của nó, mà mọi bộ phận của loại cây này đều hữu dụng theo cách này hay cách khác: hạt Hướng dương để ăn và ép dầu ăn, lá và thân dùng làm thực phẩm gia súc và dệt thành vải, đôi khi còn dùng thay thuốc lá.

Đóa hoa to lớn có những cánh vàng bao quanh một dĩa tròn màu vàng sẫm, nâu hay tím này thuộc về một nhóm có tên khoa học là Helianthus, do hai chữ Hy Lạp gh'ep lại "helios" nghĩa là mặt trời và "anthos" là hoa. Người Incas ở Peru và sau đó là người da đỏ ở Bắc Mỹ từng tôn thờ loài hoa này như một biểu tượng của mặt trời. Có một truyền thuyết cổ xưa kể rằng một nữ thần dưới nước tên là Clytie đã chết vì trái tim tan vỡ khi bị thần mặt trời Apollo bội phản và nàng hóa thân thành hoa Hướng dương.

Hướng dương còn có nhiều tên gọi khác ở các nước, song hay nhất có lẽ là "girasole" ở Ý, ghép bởi hai chữ "girare" là quay và "sol" là mặt trời. Đóa hoa này thực sự quay theo hướng mặt trời trong chuyến hành trình mỗi ngày từ Đông sang Tây.

Hoa đài các qui triều bao ánh sáng
Như trái tim thương nhớ hướng về em
Hoa vẫn thế kiêu kỳ không thay đổi
Vãn ngàn năm soi bóng ánh mặt trời

Sự Tích Hoa Phượng


Hoa Phượng

Hoa Phượng


Ngày xưa, xưa lắm, ở một vùng đất đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.
Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng... Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn nữa là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng.

Hoa Phượng

Hắn thấy ông thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy dạy võ lại rồi bảo:
-Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi mang đến chỗ ta đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi đến sau!
Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ông. người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay. Người bố liền khuyên:
-Không được! Lúc nào quân lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó! Người cha đi vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết..." Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục:
-Còn nong xôi nữa, mày về đội đến đây ngay! Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: "Gắng lên! Chỉ cần một lúc nữa, một lúc nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: "Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được.
Bỗng từ trong nong xôi, năm người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã có công giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày trước...


Sự Tích Hoa Quỳnh Và Hoa Mẫu Đơn



Sự tích hoa Quỳnh và hoa Mẫu đơn . 

Hoa Quỳnh

Hoa Mẫu Đơn

Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp... Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh. 

Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng saụ.. có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh. 



Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan). Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đị Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngàọ Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Xem xong, một cơn mưa to rụng hết. 

Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!... Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng ân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên". 

Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường. 

... Đến đời Đường Cao Tông, say đắm Võ Hậu, lúc Vua băng hà con còn nhỏ, Võ Hậu chuyên quyền nhiếp chánh hãm hại công thần, tự xưng vương, đổi nhà Đường thành nhà Đại Châu, xưng hiệu Võ Tắc Thiên hoàng đế. Một hôm, Võ Tắc Thiên ngự du vườn thượng uyển nhìn cỏ cây xác xơ trơ trọi liễu đào ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn: 

Lai triều du thượng uyển - Hỏa tốc báo xuân trị 
Bách hoa liên dạ phát - Mạc đãi hiểu phong xuỵ 


Dịch: (Bãi triều du thượng uyển - Gấp gấp báo xuân haỵ 
Hoa nở hết đêm nay - Đừng chờ môn gió sớm). 


Linh ứng thay! Trăm hoa phụng mệnh, chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian! Rạng sáng hôm sau, Võ Tắc Thiên dạo vườn trông muôn hồng ngàn tía ngoan ngoãn đua chen nở rộ, lấy làm tự mãn cho rằng quyền uy tột đỉnh. Bất giác, bà Chúa bạo dâm Võ Tắc Thiên nhìn đóa Mẫu Đơn bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa lá. Giận thay cho loài hoa ngoan cố, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày Mẫu Đơn xuống tận Giang Nam. 

Do đó, vùng Giang Bắc thiếu vắng loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên hương nhằm ám chỉ tuyệt sắc giai nhân. Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh cao. 

Đó là truyền thuyết hoa Quỳnh và hoa Mẫu Đơn được đời sau dệt thành giai thoại đầy hấp dẫn qua thuyết Đường của Trung Quốc biểu thị cho người đời suy gẫm Hoa và Người: Ai là người xứng đáng thưởng hoa và hoa phải thế nào cho con người thưởng ngoạn. 
Hoa Quỳnh Trắng

Hoa Mẫu Đơn

Sự Tích Hoa Rau Muống Biển


Hoa Rau Muống


Hoa Rau Muống

Có một đôi trai gái yêu nhau tha thiết, nhưng vì không “môn đăng hộ đối”. Gia đình cô gái thì rất giàu, còn chàng trai thì ngược lại, rất nghèo. Khi cha cô gái biết được 2 người quen nhau liền đưa ra 1 điều kiện: “Nếu chàng trai kiếm đủ tiền mua lễ vật như yêu cầu thì sẽ gả con gái cho chàng trai”.
Và từ hôm đó ngày nào chàng trai cũng ra biển đánh cá để mong tìm đủ tiền mua lễ vật cho nhạc phụ tương lai. Đến 1 ngày, số tiền đã gần đủ, hôm nay có thể nói là lần ra khơi cuối là đủ. Nhưng trớ trêu thay, chàng trai đã ra đi không trở về. Thuyền anh đã gặp 1 cơn bão lớn.
Cô gái đã khóc rất nhiều và đứng trên bờ biển để đợi chàng trai trở về nhưng chờ mãi, chờ mãi… cô gái kiệt sức và chết. Các vị thần thương cho thân phận cô gái đã biến cô thành “Hoa muống biển” và loại rau này luôn mọc hướng ra biển như ý là cô gái muốn ra biển để tìm chàng trai.

Sau khi chàng trai chết, cũng đã xin các vị thần biến mình thành những ngọn sóng. Để khi mỗi lần rau muống biển mọc lan xuống biển thì những ngọn sóng lại đánh bật lên bờ. Bởi vì chàng trai không muốn cô gái ra biển tìm mình, chàng lo cho sự an toàn của cô gái.

Sự Tích Hoa Sen


Truyền thuyết về Hoa Sen 


Hoa Sen

Sự tích:  Ngày xưa ở một làng nọ có hai cô bé mồ côi cha mẹ. Hai em được một người hát xẩm đưa về nuôi. Ông dạy cho hai em các điệu múa bài hát. Một lần cô em bị ốm, cô chị đã đốt chiếc nhẫn quý của mình làm thành thuốc thần cứu sống em.
Càng lớn hai chị em càng trở nên xinh đẹp, hát hay múa giỏi nổi tiếng khắp vùng.
 
Trong vùng có một tên công tử khét tiếng độc ác, làm mưa làm gió cả vùng. Nghe tiếng hai cô, hắn âm mưu bắt về làm vợ.
Một hôm người cha nuôi phải đi xa, ông hứa sẽ mua tặng mỗi con một món quà. Cô chị xin cha một đôi hài màu trắng thêu chỉ vàng, còn cô em xin cha một đôi hài hồng thêu chỉ vàng.
Nhân lúc người cha vắng nhà, tên công tử đã cho người đến bắt cô chị về. Để giữ trọn trinh tiết của mình cô gieo mình xuống hồ. Quá thương tâm, cô em cũng trầm mình theo chị. Khi người cha nuôi trở về không thấy con đâu, ông đi tìm hỏi và được biết chuyện.
Đi đến hồ tìm con đột nhiên, ông ngửi thấy mùi hương thơm ngan ngát tỏa ra từ hồ và ông nhìn thấy trên mặt hồ những bông hoa màu trắng và hồng. Những cánh hoa xinh xinh tựa như dáng hài; ở giữa có nhụy vàng như những sợi chỉ thêu; những chiếc lá xòe to giống như những chiếc nón quai thao các cô thường đội; hương hoa tỏa thơm dịu dàng tinh khiết như tâm hồn hai chị em.
Quá đau buồn, người cha bật khóc. Bất chợt, hai cô con gái từ dưới hồ hiện ra và bước lên cạnh ông. Cô chị kể lại chuyện: "Khi hai chị em con gieo mình xuống hồ đã được bà chúa hồ thương tình dang tay đón lấy và cứu sống. Bà rất quý chúng con, muốn chúng con ở lại với bà nhưng chúng con xin được về nhà chăm sóc cha.
Bà đã đồng ý cho chúng con trở về với cha và tạo ra những đóa hoa kia tượng trưng cho hai chị em để bà luôn cảm thấy có hai con bên cạnh bà - Tên hoa là Hoa Sen".
 
Ngày nay, Trên Thế giới hoa sen tượng trưng cho Đạo Phật. Trong sách "Tánh mạng khuê" có bài thơ: 

Hồng hồng bạch bạch thủy trung liên, .
Xuất ố nê trung sắc chuyền liên ;
Hành trực ngẫu không bổng hựu thục,
Tu hành diệu lý kháp như nhiên

Tạm dịch

Sen nở trong đầm đỏ trắng phơi,
Bùn nhơ không nhiễm sắc thêm tươi.
Thân ngay, ngó rỗng, gương đầy hột.
Cái lý tu hành cũng thế thôi.

Hình tượng hoa sen trong văn hóa Việt Nam

Ca dao Việt Nam có câu:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".



Có thể nói, từ bao đời nay hoa sen đã trở thành một hình tượng đặc biệt trong văn hóa của người Việt Nam. Trên khắp những nẻo đường ở thôn quê Việt Nam bạn có thể dễ dàng nhìn thấy những đầm hoa sen rộng, xanh và hồng thắm sắc hoa. Hoa sen đã đi vào lòng người Việt, vì thế, khi ngắm hoa bạn sẽ như nhận ra hình ảnh con người Việt Nam - giản dị, hiếu hòa và sáng trong.

Sen gồm có lá, nụ, hoa, hạt và thân rễ. Lá sen có hình dạng tròn nổi trên mặt nước, nụ hoa búp và chụm lại ở đầu, vươn cao, e ấp như một thiếu nữ đang ở độ tuổi xuân thì. Hoa sen thường có các màu phổ biến như trắng, hồng, tím thẫm, vàng,... Quả ở trung tâm hoa chứa các hạt sen còn được gọi là bát sen. Thân rễ (ngó sen) thì mọc dưới các lớp bùn trong ao, hồ hay sông. Mặc dù sinh trưởng trong bùn lầy nhưng hoa sen lại có khả năng làm lắng đục cho dòng nước. Đặc biệt, từ khi nở đến lúc tàn hoa không hề bị ong bướm vây quanh, vẫn luôn vươn lên dưới ánh mặt trời để tỏa hương thơm nồng nàn.

Trong Phật giáo phương Đông nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng thì hoa sen đã trở thành biểu tượng của vẻ đẹp thần bí, huyền ảo và sâu kín. Hoa nở tượng trưng cho quá khứ, đài sen tượng trưng cho hiện tại và hạt sen tượng trưng cho tương lai, sự nối tiếp liên tục.


Đặc biệt, trong nghệ thuật kiến trúc Việt Nam, nhất là trong Phật giáo thì hình ảnh hoa sen được lồng vào cấu trúc nhà mang ý nghĩa về sự giải thoát, giác ngộ Phật pháp. Những công trình tiêu biểu như chùa Một Cột ở Hà Nội, tháp Cửu phẩm liên hoa, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh... Đều được trang trí hình tượng hoa sen.

Không chỉ vậy, hoa sen còn có một vai trò không nhỏ trong văn hóa ẩm thực Việt Nam. Người Việt dùng tâm sen để ướp thuốc, hương sen để ướp chè (trà), ngó sen để làm món ăn, hay lá sen để gói bánh, gói cốm... Giúp mang lại một mùi thơm thật đặc biệt.

Sự Tích Hoa Sơn Thù Du (Gỗ Chó)


HUYỀN THOẠI SƠN THÙ DU

Hoa Sơn Thù Du

Hơn hai ngàn năm trước, ở Trung Đông có một loại cây đặc biệt rất cao to, thân thẳng, gỗ rắn chắc, bền bỉ hơn những loại cây khác. Vào thời ấy người ta đã dùng loại cây này để làm thập giá đóng đinh những tử tội. Họ cũng có một nhóm thợ rừng chuyên trách việc vào rừng để đốn loại cây này.


Một hôm trưởng nhóm th[/font][font="&quot"]ợ rừng[/font][font="&quot"] được lệnh phải cung cấp gấp một cây thập giá thật cao, thật nặng, thật chắc chắn để đóng đinh Vua dân Do Thái. Và lệnh này mau chóng được thực hiện…


Ba ngày sau khi Chúa Giêsu chết trên cây thập giá, thì cả rừng cây đặc biệt nọ đều khô héo dần rồi tàn lụi…Nhiều năm sau, nơi cách rừng cũ mọc lên một loại cây mới, thân cành không cao, không thẳng, không khỏe nữa. Chúng nở hoa rất lạ, có loại trắng muốt, có loại cánh hoa đỏ hồng nhưng đặc biệt là bốn cánh hoa của chúng nở xòe ra tạo thành hình chữ thập, và nhụy hoa trông như một vương miện kết bằng gai. Tiếng Anh gọi loại cây này là Dogwood (gỗ chó), và dường như các nhà khoa học chưa tìm ra lý do tại sao người ta lại đặt cho nó cái tên xấu xí như vậy. Còn người Trung Quốc gọi nó là Sơn Thù Du



Về lai lịch của Sơn Thù Du, dân gian truyền tụng rằng lúc Chúa Giêsu đang hấp hối trên thập giá thì Ngài nghe tiếng cây gỗ khóc nỉ non. Thì ra cây gỗ tủi hổ và đau đớn vì đã dính líu vào tội ác hành hình Chúa. Chúa bèn an ủi nó: “Ta thấu hiểu lòng con. Ta ban ơn cho con từ nay sẽ không cò đủ to khỏe để người khác khỏi dùng con làm thập giá nữa. Con sẽ nở hoa, hai cánh ngắn và hai cánh dài. Nhụy của con sẽ giống như vương miện kết bằng gai. Về những cánh hoa Sơn Thù Du màu đỏ thì người ta tin rằng nó nhắc nhở mọi người nhớ tới máu của Đấng Cứu Thế đã đổ ra trên cây thập giá.

Sự Tích Hoa Súng Trắng


Hoa Súng Trắng

Hoa Súng Trắng



Cả làng đang bước vào mùa cưới. Và cũng chẳng nên ngạc nhiên khi lucun, chàng trai sởi lởi và đáng yêu nhất vùng lại kết hôn với Lilia, người con gái hay lam hay làm, dễ thương nhất ở làng ấy. Thật quả là trai tài gái sắc.
Nhưng thời ấy có một con quỷ sông lang thang đây đó, chuyên nghề phá vỡ hạnh phúc của những đôi tân hôn. Một buổi chiều lucun ngồi trên bờ hồ chờ đợi Lilia đáp thuyền từ bên kia sông vượt sang. lucun đến trước, ngồi trên một gốc cây mơ màng nghĩ về niềm hạnh phúc lớn lao của mình. Vừa lúc ấy có một người lạ mặt tiến tới gần, lặng lẽ ngồi xuống một bãi cỏ ngay gần chàng và bắt chuyện.
Chờ đợi mãi mà chẳng thấy Lilia, lucun nghĩ rằng có lẽ người yêu đã quên mất cuộc hẹn hò, đôi tay chàng thốt nhiên run rẩy. Người lạ mặt tỏ ra rất tinh ý liền rút trong tay áo ra một cái chai, đưa cho lucun và nói rằng, đây là một phương thuốc chữa bệnh sầu não rất hiệu nghiệm.
- Chàng hãy uống thử một ly, chàng sẽ thấy tâm hồn thanh thản ngay - Người lạ mặt vừa nói vừa rót ra một ly rượu -  một thứ thuốc độc và mời lucun thưởng thức.
Thế là nỗi sầu muộn dường như tan biến. Chàng lại cười nói minh mẫn như thường lện. Chàng nghĩ: nàng đến chậm có thể vì còn bận nhiều việc nhà.
Lát sau, người lạ mặt lại rót ra một ly rượu nữa, lần này là một ly rượu đầy tràn, chuốc cho lucun say mèm. Bây giờ đây chàng còn muốn nhảy múa ca hát nữa. Và Lilia trong khi ngồi trên thuyền vượt hồ nước đã nghe tiếng hát của lucun vẳng lại từ xa:
ở đây ta uống, ở đây ta chơi....
- Chàng làm sau vậy? - Lilia lo lắng tự hỏi. Nàng không thể  hiểu được lucun đã kiếm đâu ra rượu độc, bởi lẽ người lạ mặt đã biến mất không để lại dấu vết.
Một tuần lễ sau, khi trên đường từ nhà người yêu trở về, lucun lại gặp người lạ mặt. Trông dáng vẻ chàng buồn rầu, không được tự nhiên. Thì ra là chàng mới bị bà mẹ vợ tương lai quả trách vì tội đã nhảy múa, hát hò, gây ồn ào một buổi chiều nọ. Người lạ mặt săn đón, hỏi dò vì sao chàng lại buồn, và chàng đã không giấu diếm gã nỗi lòng mình. ồ, chẳng việc gì phải buồn, ai  mà chẳng biết được mụ phù thuỷ và bà mẹ vợ kia thực ra chỉ là một, chỉ cần nhắp một chút rượu thuốc này thôi là bao nhiêu nỗi buồn sẽ tiêu tan hết. lucun lại uống và càng uống nhiều, chàng càng cảm thấy trong người phấn chấn hơn. Chàng cứ tiếp tục uống nữa, uống mãi. Sáng ra, người nhà tìm thấy chàng đang nằm gục bên bờ giếng, chỗ đàn ngựa hay uống nước.
Cứ thế, mỗi lần lucun gặp chuyện bất hạnh gì đấy, người lạ mặt lại xuất hiện với cái chai cầm trên tay. Có bận Lilia tìm thấy người tình của mình nằm trên bờ hồ, toàn thân lấm lem và đang rên rỉ. Nàng gạn hỏi chàng rất lâu, cho tới khi lucun phải thú nhận rằng, chàng đã uống quá nhiều rượu của một người lạ mặt. Lilia hết lời van xin chàng hãy xua đuổi con quỷ rượu kia đi và tìm cách vượt qua nỗi bất hạnh của mình.
lucun hứa sẽ làm theo đúng lời nàng dặn. Còn người lạ mặt dường như đã nghe được câu chuyện giữa hai người nên không dám bén mảng đến nữa. Tuy vậy gã vẫn lén lút dúi chai rượu khi thì vào túi áo, khi thì đặt dưới gối lucun. Đối với lucun nếu không uống thì anh sẽ mất ngủ và trong đầu luôn luôn quay cuồng câu hỏi: lấy đâu ra tiền để mua sắm áo cưới và tổ chức yến tiệc?
Chỉ còn đúng ba ngày nữa là tới đám cưới; hôm ấy, sau khi đã chờ đợi vô ích lucun trên bờ hồ, Lilia bèn đích thân đi xem xét tại sao chàng lại không tới. Ngôi nhà và mảnh sân đã bị màn đêm bao phủ, từ phía cửa ra vào hé mở lọt ra một tia sáng xanh leo lét, Lilia tiến lại gần. Chuyện gì thế kia? Trên nắp thùng rượu, lucun và - lạy Chúa! - một người nữa đang đánh cờ. Chẳng lẽ lucun lại không nhận ra kẻ đang ngồi đối diện với chàng kia là một con quỷ lông xù tai dài, có cặp sừng và đang gõ gõ cái móng ngựa xuống nền nhà bằng đất sét đó sao? Từ trong đôi mắt ứa máu của quỷ phát ra một tia sáng xanh leo lét, lucun không nhận ra điều đó sap?
- át chủ bài! - Quỷ hét
Quỷ đã thắng và giơ bàn tay ra:
- Đưa chiếc nhẫn đây!
Còn lucun? Chàng đang tháo chiếc nhẫn, quà tặng của vợ, đưa cho quỷ.
Lilia toan hét lên, song vì sợ hãi và giận dữ, cổ họng nàng cứ tắc nghẹn lại.
- Tao cược một chai nữa - tiếng quỷ la - Mày cược gì?
- Tôi chẳng còn gì nữa cả - lucun phàn nàn - Tôi đã thua trắng tay, cả nhà cửa, của cải, thậm chí đến chiếc nhẫn cưới cũng mất.
- Mày còn cô vợ chưa cưới đó, đưa nàng ra cá cược nốt đi! Quỷ cười.
lucun thốt lên:
- Không được! Khác nào mày rút trái tim trong lồng ngực của tao.
- Hãy uống một hớp đã rồi thoả thuận sau - Quỷ đưa cho chàng cái chai và lucun đã tu thả sức.
- Cược Lilia nhé - Quỷ hỏi
- Không!
- Cược Lilia nhé?
- Hèm... - lucun thở dài.
- Uống đi!
Uống cạn ngụm rượu thứ ba, lucun thốt lên:
- Được! Chả lẽ trên thế gian này ngoài nàng ra không còn gái đẹp nữa sao?
Một tiếng rên thốt ra từ lồng ngực Lilia:
- lucun, anh làm gì thế?
Nàng chạy lại bên hồ, đôi chân rớm máu. Nhưng nhữn vết thương này làm sao có thể so sánh được với nỗi đau đang dày vò lương tâm nàng. Nàng không hề mảy may có ý nghĩ rằng trên đời này ngoài lucun nàng còn có nhiều chàng trai khác. Không, nếu lucun coi rượu của quỷ quý giá hơn cả nàng thì nàng chẳng nên sống làm gì. Thà nhảy xuống hồ tự vẫn còn hơn.
Sau khi bơi thuyền đến hồ, Lilia thốt lên:
- Vĩnh biệt tuổi thanh xuân của ta!
Nàng gieo mình xuống nước và ở lại đó vĩnh viễn, còn con thuyền thì bị gió đánh bạt sang bờ khác.
Đến lúc này, lucun mới hiểu rằng chàng đã đánh mất hạnh phúc của mình. Ngày nào chàng cũng đến ngồi bên hồ và chờ đợi một điều gì đó, hy vọng một điều gì đó, cùng với nỗi lòng chàng đầy phiền muộn và tiếc thương.
Nhưng một hôm, đúng lúc vào ngày lễ thánh, chàng nhìn thấy một bông hoa trắng trôi nổi, bập bềnh trên mặt nước, và không hiểu tại sao chàng cứ đinh ninh đó là Lilia, người vợ chưa cưới của chàng đã mất tích ba ngày trước khi cưới. Và chàng nghe có lời ca vang xa trên hồ nước:
Bông hoa trắng trên hồ
Đó là người bạn đời của ta
Nhưng liệu có lời đáp lại không?
Không, chàng lại nghe rành rọt những lời sau:
Thà ở lại vĩnh viễn đáy hồ
Còn hơn trong vòng tay ôm ấp của chàng
Đó chính là Hoa Súng Trắng - Hoa của hồ nước.